Phân tích sự khác biệt giữa khoản 1 và khoản 6 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015
Khoản 1 Điều 134 BLHS 2015 quy định:
“Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người…”
Theo đó, bốn yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe gồm:
-
Khách thể: Quyền được pháp luật bảo vệ về sức khỏe con người.
-
Chủ thể: Người từ đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có lỗi cố ý.
-
Khách quan: Hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, thể hiện ý chí mong muốn gây thương tích/tổn hại sức khỏe.
-
Chủ quan: Mong muốn hoặc ý thức rõ hành vi của mình sẽ gây thương tích.
Vì tội này có cấu thành vật chất, nên hậu quả (tỷ lệ tổn thương từ 1% trở lên) là điều kiện bắt buộc để xử lý hình sự. Tuy nhiên, quy định tại khoản 6 Điều 134 mở rộng phạm vi trách nhiệm hình sự:
Tại Thông báo số 89/TANDTC-PC ngày 30/6/2020, TANDTC đã hướng dẫn:
“Quy định tại khoản 6 Điều 134 không bắt buộc hành vi gây thương tích phải hoàn thành hay có hậu quả xảy ra. Việc chuẩn bị vũ khí, hung khí nguy hiểm, a-xít, hóa chất… hoặc tham gia nhóm nhằm mục đích gây thương tích cũng đủ căn cứ xử lý hình sự.”
Vấn đề phát sinh từ mối liên hệ giữa Điều 134 và Điều 155 BLTTHS 2015
Theo Điều 155 BLTTHS 2015:
Chỉ được khởi tố các tội danh như khoản 1 Điều 134 BLHS 2015 khi có yêu cầu của bị hại (trừ khi thuộc khoản khác hoặc trường hợp đặc biệt).
Như vậy, dù người phạm tội đã trực tiếp gây thương tích, nếu bị hại không yêu cầu thì cơ quan tiến hành tố tụng buộc phải đình chỉ vụ án. Ngược lại, nếu chỉ mới chuẩn bị phạm tội (chưa gây hậu quả gì), nhưng thuộc khoản 6 thì vẫn bị khởi tố và xử lý hình sự, không phụ thuộc vào yêu cầu của bị hại.
Ví dụ so sánh thực tế
Ví dụ 1 – So sánh giữa hành vi đã gây thương tích và hành vi chuẩn bị phạm tội
A vay tiền của B và C – hai người thuộc một nhóm giang hồ. Khi A không trả tiền, B và C bàn bạc cùng một nhóm người khác chuẩn bị hung khí để đến nhà A đánh dằn mặt. Khi đến gần nơi ở của A, nhóm của B xông vào đánh A, gây thương tích 15%. Nhóm của C đi sau, chưa kịp tham gia thì cả hai nhóm bị công an bắt.
A sau đó rút đơn yêu cầu khởi tố, nên nhóm của B (dù đã gây thương tích) được đình chỉ vụ án theo Điều 155. Trong khi đó, nhóm của C, chưa thực hiện hành vi gây thương tích, vẫn bị khởi tố do hành vi chuẩn bị tội phạm theo khoản 6 Điều 134 BLHS 2015.
→ Nghịch lý phát sinh: Người gây ra thương tích thì thoát tội do bị hại rút đơn; người chưa gây hậu quả lại bị xử lý hình sự.
Ví dụ 2 – Trường hợp dừng hành vi do yếu tố bên ngoài
Do mâu thuẫn, A rủ bạn chuẩn bị dao đi tìm B để đánh. Khi gặp B, thấy B sợ hãi van xin, nhóm của A bỏ về. Tuy chưa đánh người, nhưng họ bị bắt ngay sau đó và bị truy tố về hành vi chuẩn bị cố ý gây thương tích theo khoản 6 Điều 134.
Ngược lại, nếu trong tình huống khác, A đánh B bằng tay gây thương tích 9%, nhưng do A từng bị xử phạt hành chính nên bị khởi tố theo khoản 1 Điều 134. Tuy nhiên, nếu B sau đó rút đơn yêu cầu, thì vụ án phải đình chỉ.
→ Như vậy, người có hành vi đánh người thật lại có thể không bị truy cứu, trong khi người chỉ chuẩn bị thì bị xử lý hình sự.
Vấn đề đặt ra
Có thể thấy rằng:
-
Hành vi chuẩn bị phạm tội (khoản 6) thường được xử lý không cần hậu quả và không phụ thuộc ý chí bị hại.
-
Trong khi đó, hành vi đã gây hậu quả lại phải chờ yêu cầu của bị hại mới bị truy tố.
Điều này đặt ra câu hỏi về tính công bằng, răn đe và giáo dục pháp luật giữa hai quy định:
-
Khoản 1 có mức hình phạt nặng hơn nhưng phụ thuộc ý chí bị hại.
-
Khoản 6 có mức nhẹ hơn nhưng bị xử lý hình sự không điều kiện.
Gợi ý lập pháp
Để đảm bảo tính thống nhất và hợp lý trong áp dụng pháp luật hình sự, có thể xem xét:
-
Bổ sung quy định cho phép khởi tố vụ án ở khoản 1 Điều 134 không phụ thuộc vào yêu cầu của bị hại trong một số trường hợp (ví dụ có tổ chức, có hung khí…).
-
Rà soát lại tính hợp lý về hậu quả pháp lý giữa hành vi chuẩn bị và hành vi đã thực hiện nhưng bị rút yêu cầu.